Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Phong thủy vùng đất Thanh Hóa

Câu thành ngữ: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu, tức Thanh Hóa được xem là nơi phát tích của phục dịch hết các dòng tộc vua, chúa Việt xưa. Vì sao vậy?Khi tính chất từ khi nước Nam ta có Nhà nước trước nhất cho đến khi kết thúc triều tuyệt phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn, thì điểm lại hầu hạ hết danh thiếp dòng tộc vua, chúa đa phần đều phát điển tích từ đất Thanh Hóa (Ái Châu) mà ra.


bạn có thể dễ dàng lên top 1 google cùng phần mềm SEO NINJA : http://phanmemseoninja.com


Đây được xem là vùng đất có nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Hình thế đắc địa như một vương quốc riêng như vậy, cũng từ đó mà hình thành cho nên tính chất cách, phong thô lỗ của người dân nơi đây được An Nam chí lược của Lê Tắc trong phần Phong thô lỗ khen là: “Người đâm ra ở Giao Châu và Ái Châu thì rộng rãi, có mưu trí”. Còn trong Đại Nam nhất thống chí thì bình phẩm rằng: “Sĩ tử thích văn học, giữ khí tiết, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người đẽo keo kiết là sở trường hơn cả, ít người buôn bán”. Chính từ địa lợi, nhân dịp hòa ấy, góp phần cho vùng đất Ái ngọc trai trở nên nơi thiên thời cho việc xưng vương, dựng nước.


Cũng bởi là đất đế vương, nên không phải ngẫu nhiên mà nhà Trần đã từng phải cho người đục núi, lấp sông ở nơi đây để trấn yểm danh thiếp huyệt mạch đế vương. Điều này được chứng thực bởi Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng, nguyên văn như sau: “Trần Thái Tông niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), sai người giỏi về phong thủy đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông, như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp danh thiếp khe kênh, mở đường ngang lối dọc không kể xiết”. Núi Chiêu Bạc đích thị là núi Chiếu Sơn thuộc huyện Nga Sơn. Sông Bà thuộc địa giới huyện Đông Sơn, còn sông Lễ đích thị là sông Mã. Nhưng việc làm ấy cũng tiền như muối bỏ biển, vì ngay sau nhà Trần thì nhà Hồ đã phát ra từ xứ Thanh rồi. Thế thành thử lời của sử thần Ngô Sĩ Liên quả chẳng sai chút nào: “Từ khi có trời đất đất này, thì đã có sông núi này, mà khí trời ơi chuyển vận, thánh nhân dịp ra đời, đều có số mệnh cả. Khí trời đất ơi từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân dịp trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, tuyệt lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo non sông có trạng thái lấy phép thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân dịp ra thế hệ có phép thuật gì trấn áp được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương Đông Nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà chung cục Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu”.


Liên tiếp danh thiếp triều tuyệt vua, chúa phát tích từ đất Ái Châu mà ra, cho nên trong dân gian đời xưa có câu ngạn ngữ truyền đời: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”, ý nói Thanh Hóa là nơi phát tích của danh thiếp triều hết sức đế vương. Còn xứ Nghệ An là nơi có danh thiếp tôi thần giỏi giang giúp vua trị nước. Theo thống kê của tác giả, kể từ khi nước ta có vua thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến chung cuộc là nhà Nguyễn vào năm 1945 với vua Bảo Đại, thì Thanh Hóa chính là nơi khởi nguồn của nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Vậy nên, nói Thanh Hóa là vùng đất địa linh, tuấn kiệt từ ngàn xưa đến nay quả chẳng ngoa chút nào.


Đất của vua


Năm Mậu Thìn (248), Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa làm quân giặc thất đảm tôn phủ phục với câu cửa miệng “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện bà Vương nan” (Múa giáo chống hổ dễ. Đối mặt vua bà khó). Dù chưa lập triều nghi, nhưng ngay quân Ngô đã tôn xưng người con gái của trận tuyến bên kia làm vua rồi.


Tháng 12 năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã đánh đuổi quan đô hộ Lý Khắc Chính, Lý Tiến của nhà Đường, xâm chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết Độ sứ, nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi nối tiếp được nền độc lập, tự chủ bởi dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu (905).


Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo mời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để hợp nhất lòng dân chống quân xâm lược Tống, từ đó mở ra nhà Tiền Lê (980 - 1009). Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê trải ba thế hệ gồm Lê Đại Hành (980 - 1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngọa Triều (1005 - 1009).


520 năm sau, cũng năm Canh Thìn (1400), ngoại thích Hồ Quý Ly thoán đoạt ngôi vị nhà Trần lập nhà Hồ với tên nước là Đại Ngu, đế đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau thiên cư sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm (1400 - 1407).


Thời gian 1428 – 1789 là thời kỳ tồn tại của nhà Hậu Lê gồm giai đoạn Lê sơ (1428 - 1527) và Lê Trung hưng (1533 - 1789). Người sáng nghiệp nhà Hậu Lê là Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sau chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh (1416 - 1428). Ông quê ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị bởi vì (1460 - 1497). Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự hồi phục của nhà Lê sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi với vị vua trước nhất Lê Trang Tông (1533 - 1548), và chấm dứt với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống (1786 - 1789).


Triều cực kì chung cuộc của Việt Nam là nhà Nguyễn (1802 - 1945) vì chưng Nguyễn Ánh Gia Long hưng khởi, tổ tiên của ông là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn (xã Hà Long, huyện Hà Trung nay), đất Thanh Hóa. Nhà Nguyễn truyền được 13 thế hệ vua, bắt đầu từ vua Gia Long (1802 - 1820) cho đến vua Bảo Đại (1926 - 1945).


“Nhà” của chúa


Trong lịch sử nước Nam ta, ghi nhận chính thị thức có hai dòng chúa là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Cả hai dòng chúa đều phát tích từ xứ Thanh.


Chúa Trịnh thời vua Lê – chúa Trịnh thế kỷ XVI  - XVIII vì chưng Trịnh Kiểm lập nên. Ông vốn xuất thân nghèo nàn từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tuy mang tai mang tiếng phò giúp nhà Lê, nhưng quyền lực thực tế của các chúa Trịnh lại át cả vua Lê, có cung vua thì có phủ chúa. Vua Lê có Lục Bộ thì chúa Trịnh có Lục phiên. Vua Lê dạo Trung hưng đồng cân có hư vị mà thôi. Thế thành thử dân gian mới có câu: “Phi đế phi bá, quyền nghiêng thiên hạ” để tiền thần thế của chúa Trịnh. Dòng dõi chúa Trịnh bắt đầu từ chúa Trịnh Kiểm (1545 - 1570) cho đến thời chúa Trịnh Bồng (1786 - 1787) bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp thì dứt hẳn.


Chín thế hệ chúa Nguyễn được lập thành thử sau thời chúa Trịnh. Vào năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên “Hoành Sơn nhất đại, khả dĩ dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu hạ Nguyễn Kim người Gia Miêu ngoại trang được nói tới ở trên. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) cho tới Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777), có công lập cho nên và khai phá đất Đàng Trong, mở mang dần về phía Nam non sông cho tới tận Mũi Đất, Cà Mau.


Không đồng cân là nơi phát vua, phát chúa, Ái Châu – Thanh Hóa còn nhiều lần đóng vai trò trung tâm của sông núi khi từng giữ vị trí là đất Thần Kinh. Cụ thể là Tây Đô thời Hồ với thành An Tôn, hay Tây Giai (1400 - 1407).


Khi vua Lê Trang Tông phủ phục quốc bên Ai Lao năm Quý Tỵ (1533), đến năm Quý Mão (1543) cũng chọn xứ Thanh để đóng làm nơi phát binh Bắc tiến đánh Thăng Long diệt Mạc. Năm Bính Ngọ (1546) thì lập điện để ở tại sách Vạn Lại, nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa tạo nên Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc ở Thăng Long.


Ngày nay, Thanh Hóa là một trong 63 tỉnh, thành thị của đất nước, được xếp theo vị trí địa lý là tỉnh mở đầu vùng Bắc Trung Bộ.
Hướng dẫn sử dụng máy phát điện cummins độc quyền.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét